Jump cut là khi một cú máy bị phá vỡ bằng cắt bất ngờ để làm cho chủ thể giống như nhảy không - thời gian tiến lên trước ngay lập tức. Mặc dù đa số kỹ thuật dựng phim được thiết kế để “giấu” bàn tay người dựng phim nhưng jump cut lại hoàn toàn ngược lại. Cú cắt này là một lựa chọn phong cách và cố ý để làm cho sự cắt dựng dễ dàng nhìn thấy, cảm nhận ngay được trên màn hình.
Một số nhà làm phim cho rằng jump cut không tốt vì chúng gây sự chú ý đến bản chất được xây dựng của bộ phim. Chúng được coi là vi phạm dựng phim liên tục thông thường (tạo ra vẻ ngoài liền mạch về thời gian và không gian của câu chuyện).
Điểm khác nhau giữa Jump cut và match cut (cắt dựng liền mạch) là loại thứ hai nhằm mục đích tạo ra chuyển cảnh liền mạch giữa hai cảnh khác nhau. Mục đích thông thường của match cut là để tạo ra sự so sánh ẩn dụ giữa hai vật thể, chủ thể, hoặc bối cảnh khác nhau.
Cách sử dụng jump cut trong phim:
- Trong montage
- Làm tăng tính căng thẳng
- Khi giới thiệu các nhân vật
- Nhấn mạnh các trạng thái tâm trí
- Trong các cuộc phỏng vấn tài liệu
Jump cut đã xuất hiện từ khi điện ảnh ra đời. Để định nghĩa jump cut, không thể không nhắc đến nhà làm phim vĩ đại Georges Méliès, người ứng dụng kỹ thuật này để tạo ra ảo ảnh ma thuật xuất hiện trên màn ảnh. Là một nhà ảo thuật, Méliès tận dụng hoàn hảo kỹ thuật này để tạo ra các “cú máy đánh lừa” ấn tượng đi vào lịch sử.
Trong thời kỳ huy hoàng của hệ thống Xưởng phim Hollywood giai đoạn 1920 – 1950, cách tiếp cận làm phim chủ yếu là “tính vô hình” và “che dấu” cách xây dựng cấp trúc của phim. Cách làm này, theo lý thuyết, khiến khán giả đắm chìm trong bộ phim. Điều này chỉ thay đổi cho đến khi Làn sóng mới Pháp hoàn toàn vứt bỏ các niêm luật.
Sử dụng jump cut mới mẻ hơn bắt đầu với đạo diễn huyền thoại Jean-Luc Godard và bộ phim Breathless (1960), một trong những bộ phim thuộc Làn sóng mới Pháp nổi tiếng nhất. Bề ngoài, Breathless là một câu chuyện tình yêu nhưng những kỳ vọng về dạng câu chuyện này bị phá bỏ. Trong cảnh hai nhân vật chính ngồi trên xe ô tô đi từ con phố này qua con phố khác, máy quay tĩnh chỉ tập trung vào Patricia (Jean Seberg) nhưng jump cut nhiều lần để tạo ra những điểm tưởng chừng ngẫu nhiên và bất định trong tương lai.
Godard chủ ý phá vỡ “tính vô hình” được đề cao bởi Hollywood và các bộ phim dòng chủ lưu của Pháp. Các cú cắt ở trong Breathless tạo ra hiệu quả xung đột theo chủ ý của Godard. Theo các tiêu chuẩn hiện đại, những jump cut này không có gì mới lạ, nhưng vào năm 1960, chúng đã tạo ra hiệu ứng vang dội.
Ngày nay, trong khi bạn vẫn có thể nhìn thấy jump cut xuất hiện thường xuyên trên phim, kỹ thuật này đã trở thành một cuộc bùng nổ trên internet (chủ yếu là các vlogger và Youtuber). Jump cut đã trở nên phổ biến với vlog đến mức thậm chí bạn còn không nhận ra chúng nữa.
Jump cut là khi một cú máy bị phá vỡ bằng cắt bất ngờ để làm cho chủ thể giống như nhảy không - thời gian tiến lên trước ngay lập tức.
Sau đây là 05 cách sử dụng Jump Cut trong công việc dựng phim:
1. Sử dụng jump cut trong montage
Montage là một loạt các hình ảnh riêng biệt (có thể là hình ảnh động hoặc hình ảnh tĩnh) được dựng với nhau để tạo ra một trường đoạn liên tục. Một “montage” cho phép các nhà làm phim truyền đạt một lượng lớn các thông tin cho khán giả trong một khoảng thời gian ngắn bằng cách đặt các cảnh khác nhau vào cạnh nhau, như một cách "nén" thời gian thông qua dựng phim, hoặc là lồng ghép nhiều dòng câu chuyện để chúng đan xen vào nhau.
Từ “montage” có nguồn gốc từ tiếng Pháp, có nghĩa là dựng phim.
Ví dụ phim Schindler’s List (1993) - Ví dụ dưới phần comment
Đây là một trong những bộ phim hay nhất của trong sự nghiệp của đạo diễn Steven Spielberg, đi theo Oskar Schindler, một doanh nhân đã cứu hơn một nghìn người Do Thái – Ba Lan khỏi thảm họa diệt chủng bằng cách nhận họ làm việc trong nhà máy của ông.
Có hai lý do tại sao jump cut lại là lựa chọn phù hợp đối với cảnh này. Đầu tiên, chúng truyền tải sự trôi qua của thời gian. Schindler gặp gỡ nhiều người phụ nữ trong văn phòng đang được sơn lại. Giống như bất kỳ montage nào, chúng ta có thể di chuyển nhanh chóng và hiệu quả qua quá trình này nhưng đây chỉ là một lý do thực tế. Thứ hai, sử dụng các cú cắt này tạo hiệu ứng hài hước. Những người phụ nữ rõ ràng không biết cách đánh máy giỏi, và bằng cách thể hiện họ nối tiếp nhau, cách này cung cấp khoảnh khắc nhẹ nhàng trong một bộ phim quá nặng nề, khoảng nghỉ này cũng đồng thời đẩy cốt truyện tiến liên.
2. Jump cut khuếch đại căng thẳng - Ví dụ dưới phần comment
Trong Run Lola Run (1998), chúng ta thấy một ứng dụng rất khác với jump cut. Sau khi người bạn trai của Lola mất 100,000 mark mà đáng nhẽ anh ta phải chuyển cho trùm tội phạm, cô cần phải tìm cách kiếm tiền trong 20 phút để cứu anh ta.
Như cốt truyện phim gợi ý, Run Lola Run là một bộ phim tốc độ nhanh và không có thời gian để lãng phí. Những cú cắt nhấn mạnh điều này, và chúng đặt khán giả trực tiếp trong suy nghĩ của Lola. Cô vừa nhận một tin kinh khủng, lo lắng và mất phương hướng. Dựng phim jump cut tạo ra hiệu quả tương tự cho người xem.
Mắt người thường muốn nhìn thấy những chuyển động mềm mại, liên tục nhưng jump cut đi ngược lại với thẩm mỹ đó. Mặc dù nhiều bộ phim muốn tránh hiệu ứng này, nó lại phù hợp hợp hoàn hảo với Run Lola Run. Dựng phim tạo ra tâm trạng cho khán giả, một kỹ thuật phù hợp hơn các cú máy và dựng phim phổ thông.
Tham khảo
3. Sử dụng jump cut để giới thiệu nhân vật
Snatch (2000) là bộ phim hình sự của đạo diễn Guy Ritchie, đi theo một nhóm tội phạm cố gắng tìm kiếm viên kim cương bị đánh cắp và một tay quảng cáo đấm bốc làm việc cho tên trùm tội phạm. Bộ phim có nhiều kỹ thuật mà Ritchie sử dụng xuyên suốt sự nghiệp của ông, bao gồm, dựng phim nhanh, đặc biệt là trong các trường đoạn mở đầu tên phim.
https://www.youtube.com/watch?v=yAgI51QvWxs&t=24s
Trường đoạn tên phim bao gồm nhiều jump cut và các kỹ thuật, phong cách khác. Guy Ritchie cần phải truyền tải rất nhiều thông tin, bao gồm giới thiệu 12 nhân vật. Mỗi nhân vật có một tính cách và mục đích riêng biệt. Để tăng tốc, Ritchie sử dụng những cú cắt để tua nhanh và xây dựng động năng kể chuyện.
Ví dụ rõ ràng nhất của jump cut trong trường đoạn là lúc giới thiệu Mickey (Brad Pitt). Anh ta nhận được một tập tiền, và nhóm của anh ta tìm cách động vào nó. Mickey đập tay tên kia vài lần với các cú jump cut ở giữa. Nhờ đó, khán giả, nhận được tất cả thông tin họ cần về nhân vật này chỉ trong vài giây. Tình cờ, đây là một trong những diễn xuất hay nhất của Brad Pitt. Cảnh jump cut này đạt được một mũi tên trúng hai đích. Phần còn lại của bộ phim nhanh và đầy năng lượng. Việc sử dụng các cú jump cut trong mở đầu đã cho khán giả biết chính xác họ đang xem loại phim gì và lôi cuốn họ theo dõi bộ phim.
4. Nhấn mạnh trạng thái tâm trí bằng jump cut
Một trong những khoảnh khắc bất ngờ và xúc động nhất của phim The Royal Tenenbaums (2001) là khi Ritchie (Luke Wilson) định tự vẫn. Trước khoảnh khắc đó, anh ta bắt đầu cắt tóc, cạo râu. Trong cảnh buồn bã này có nhiều jump cut. Bề ngoài, đây có vẻ như chỉ là một lựa chọn thực tế - nén thời gian và di chuyển nhanh qua quá trình. Nhưng hãy xem các hiệu quả cảm xúc khi theo dõi cảnh phim này:
https://www.youtube.com/watch?v=b8dWtK4H7cE
Các cú jump cut thường được sử dụng để tạo ra sự phấn khích và năng lượng nhưng trong trường hợp này, chúng được hình ảnh hóa nỗi buồn. Wes Anderson không cần thể hiện Ritchie cắt tóc của anh ta, mà để chia sẻ một khoảnh khắc cực kì thân mật với nhân vật. Các cú jump cut đóng vai trò trình hiện thị giác về trạng thái cảm xúc không ổn định và vỡ vụn của Ritchie.
6. Cú cắt theo trục (axial cut) – mẹo tương tự jump cut
Có một cách thể hiện của jump cut tạo hiệu ứng tương tự nhưng thực hiện hơi khác. Trong khi jump cut tua thời gian lên phía trước trong một cú máy, cú cắt theo trục chỉ nhảy điểm nhìn của máy quay mà không nhảy thời gian.
Nói cách khác, từ cùng góc máy quay, các cú cắt ngay lập tức điều chỉnh độ dài tiêu cự, bất kể dài hơn hoặc ngắn hơn. Theo cách nói của người thường, chủ thể trong hình ảnh càng to lên hoặc nhỏ đi trong khuôn hình với từng cú cắt. Các cú cắt theo trục hoạt động tương tự với cú máy zoom nhưng không có thay đổi dần dần. Những thay đổi ở đây đột ngột và xung đột.
Ví dụ, đây là một khoảnh khắc hoảng loạn trong phim E.T. khi Elliott và các bạn đang trốn tránh những người cầm quyền. Các cú cắt theo trục xuất hiện vào 1:04 trong clip này:
https://www.youtube.com/watch?v=oR1-UFrcZ0k
Alfred Hitchcock cũng là một người thường xuyên sử dụng kỹ thuật này, cắt xung đột và gián đoạn trong những khoảnh khắc khủng khiếp. Ví dụ như cảnh phòng tắm trong phim Psycho, khi Marion đối mặt với tên giết người, các cú máy cắt gần hơn và gần hơn vào cái mồm hét lên của Marion. Hoặc, cảnh trong phim The Birds. Các cú cắt theo trục xuất hiện ở 0:55:
https://www.youtube.com/watch?v=M0HjlCowwuM
(Nguồn: Studiobinder)
Tham khảo